bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng
BẢN ÁN 43/2018/DS-ST NGÀY 07/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG (VAY TÀI SẢN) Ngày 07 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 12/2018/TLST-DS ngày 17 tháng 01 năm 2018 về việc tranh chấp hợp đồng tín
(Kiemsat.vn) - Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận vừa đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt và bị đơn là Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Thương mại Cát Tường Minh.
UBND tỉnh Thanh Hoá vừa có Văn bản số 15454/UBND-THKH ngày 17/10/2022 về việc tạm dừng thực hiện chủ trương đầu tư dự án Khu đô thị mới phía Đông đường vành đai phía Tây TP.Thanh Hoá với tổng mức đầu tư gần 1.200 tỷ đồng.
Bản án 432018DSST ngày 07062018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng (vay tài sản) là vụ án tranh chấp giữa ngân hàng thương mại cổ phần V (nguyên đơn) với ông Lâm Thành C cùng vợ là bà Trần Thị Ngọc P (bị đơn) và bà Nguyễn Thị Thiên L (Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
Tóm tắt bản án số 02/2022/KDTM-ST, ngày 21/3/2022 về tranh chấp hợp đồng tín dụ Bài viết Thủ tục pháp luật Hướng dẫn sử dụng Xếp hạng Hỏi đáp pháp luật
Partnersuche Im Internet Kostenlos Ohne Anmeldung. Ngày đăng 11/02/2015, 1958 Dịch vụ cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vượt trội đã trở thành giải pháp kịp thời và hợp lý cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về vốn. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp chọn đi thuê tài chính hơn càng hình thức cấp tín dụng truyền thống khác. Tuy nhiên, sự phức tạp trong thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ cho thuê tài chính, cụ thể là bên đi thuê, bên cho thuê, và bên bán tài sản là điều mà các doanh nghiệp cần lưu ý. Sự cẩn thận, toàn diện khi tiến hành thỏa thuận hợp đồng cho thuê tài chính cũng là điều mà tất cả các doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm. Những rủi ro từ hợp đồng cho thuê tài chính, nếu không được tiên liệu giải quyết từ khi thỏa thuận hợp đồng sẽ chính là con dao hai lưỡi với các doanh nghiệp vốn đã gặp khó khăn về vốn nay lại phải gánh chịu thêm thiệt hại từ rủi ro của hợp đồng cho thuê tài vọng bài bình luận sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích trong khuôn khổ chương trình học môn Luật Ngân hàng. MỤC LỤC Trang I. LỜI NÓI ĐẦU 2 II. NHỮNG THÔNG TIN CHUNG VỀ BẢN ÁN Nội dung nguyên văn bản án 4 Tóm tắt nội dung vụ án 17 Yêu cầu và lập luận của các bên 19 Vấn đề pháp lý cần giải quyết trong vụ án 20 Các quy định pháp luật mà Tòa án áp dụng trong bản án 20 III. PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG BẢN ÁN Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 23 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 24 Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 26 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 26 Vấn đề pháp lý về trách nhiệm của Công ty cho thuê tài chính trong việc phối hợp với Công ty Thái Bình Dương đòi nợ tập đoàn Kumgang Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý 28 Đánh giá, bình luận về giải pháp của Tòa án 28 1 IV. KẾT LUẬN 30 V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 32 2 I. LỜI NÓI ĐẦU Thời điểm nền kinh tế nước nhà chuyển sang nền kinh tế thị trường, một cánh cửa mở ra cho doanh nghiệp Việt Nam với những cơ hội phát triển mới. Tuy nhiên, cánh cửa hội nhập mở toang cũng đồng nghĩa với theo sau đó, là những khó khăn thách thức. Các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, cộng với biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, các doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mới. Rất nhiều doanh nghiệp không đủ sức đứng vững trước những biến động thị trường, những doanh nghiệp ngấp nghé bên bờ vực phá sản cũng không ít. Con đường để tồn tại lúc này là phải nhanh chóng đổi mới, nâng cấp máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm. Thức tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc giải quyết vốn cho các doanh nghiệp. Dịch vụ cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vượt trội đã trở thành giải pháp kịp thời và hợp lý cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp chọn đi thuê tài chính hơn càng hình thức cấp tín dụng truyền thống khác. Tuy nhiên, sự phức tạp trong thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ cho thuê tài chính, cụ thể là bên đi thuê, bên cho thuê, và bên bán tài sản là điều mà các doanh nghiệp cần lưu ý. Sự cẩn thận, toàn diện khi tiến hành thỏa thuận hợp đồng cho thuê tài chính cũng là điều mà tất cả các doanh nghiệp phải hết sức lưu tâm. Những rủi ro từ hợp đồng cho thuê tài chính, nếu không được tiên liệu giải quyết từ khi thỏa thuận hợp đồng sẽ chính là con dao hai lưỡi với các doanh nghiệp vốn đã gặp khó khăn về vốn nay lại phải gánh chịu thêm thiệt hại từ rủi ro của hợp đồng cho thuê tài chính. Nhóm chúng tôi lựa chọn bình luận một bản án phúc thẩm về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính, với mong muốn qua những phân tích, bình luận có thể hiểu rõ hơn quy định pháp luật, cũng như thực tiễn những vấn đề phát sinh trong hợp đồng cho thuê tài chính. Mặc dù Bản án được nhóm sử dụng để phân tích, bình luận có hiệu lực từ ngày 09 tháng 5 năm 2006, tức là trong thời gian Luật Các tổ chức tín dụng 1997 có hiệu lực pháp luật. Song các quy định về hoạt động cho thuê tài chính của Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành về cơ bản đều tương đồng với Luật Các tổ chức tín dụng 1997. Ngoài ra, Nghị định 16/2001/NĐ-CP, văn bản quy phạm pháp luật mà Hội đồng xét xử 3 áp dụng để giải quyết vụ án trong trường hợp chỉ vừa hết hiệu lực từ ngày 25 tháng 6 năm 2014, khi được thay thế bởi Nghị định 39/2014/NĐ-CP về Hoạt động của Công ty tài chính và Công ty cho thuê tài chính. Nói cách khác, không có quy định khác biệt nào trong các văn bản pháp luật hiện hành làm thay đổi giải pháp đối với các vấn đề pháp lý trong vụ án. Chính vì những lý do đó, có thể thấy các vấn đề pháp lý được đặt ra và giải quyết trong Bản án mà nhóm lựa chọn vẫn còn mang ý nghĩa pháp lý, thực tiễn, thời sự. 4 II. NHỮNG THÔNG TIN CHUNG VỀ BẢN ÁN Nội dung nguyên văn bản án TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Bản án số 102/2006/KTPT Ngày 09/5/2006 V/v tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa Ông Hà Tiến Triển Các Thẩm phán Ông Trần Trọng Liên Ông Bùi Thế Linh Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Bà Nguyễn Thu Thủy, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà nội. Ngày 09 tháng 5 năm 2006 tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh tế thị lý số 01KT/2006 ngày 25 tháng 01 năm 2006 về tranh chấp hợp đồng cho thuê tài chính theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1081/2006/QĐPT ngày 20/4/2006 giữa các đương sự * Nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương. Trụ sở D2 Hoàng Hoa Thám, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đại diện của nguyên đơn Ông Phạm Thanh Huy làm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn theo giấy ủy quyền ngày 14/3/2006 của ông Phạm Ngọc Thanh - Giám đốc Công ty - có mặt. * Bị đơn Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 5 Trụ sở Tầng 12 tòa tháp Vincom - 191 Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đại diện của bị đơn bà Phạm Thị Dung làm đại diện theo giấy ủy quyền số12/UQ- CTTC ngày 21/3/2006 của ông Nguyễn Đức Thịnh - Giám đốc Công ty. Có luật sư Nguyễn Hoàn Thành – Văn phòng Luật sư Phạm và liên doanh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn. NHẬN THẤY Theo bản án dân sự sơ thẩm, vụ việc được tóm tắt như sau Ngày 01/3/2002, Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương gửi văn bản đến Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đề nghị xin thuê tài chính loại tài sản là màn hình quảng cáo ngoài trời nhiều mầu làm từ các đi ốt phát quang màn hình LED, kèm theo là bộ hồ sơ đề án đầu tư bản quảng cáo điện tự LED tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa và bản thỏa thuận nguyên tắc điều khoản cuả hợp đồng mua bán bảng thông tin LED giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình dương với Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Bên A, ký hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HD-CTTC với Công ty trách nhiệm hữu hạn và quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương Bên B nội dung cho thuê một màn hình quảng cáo ngoài trời nhiều mầu làm từ các điốt phát quang như bên B đề nghị, mục đích sử dụng để kinh doanh các dịch vụ quảng cáo bằng màn hình. Địa điểm đặt màn hình tại đường Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa. * Việc thuê và cho thuê được thỏa thuận trên nguyên tắc - Bên B lựa chọn tài sản, nhà cung ứng, ký thỏa thuận nguyên tắc với nhà cung ứng với các điều kiện như chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả, bảo hành… Bên B phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về các vấn đề đã hỏa thuận với nhà cung ứng. - Bên A ký hợp đồng mua thiết bị với nhà cung ứng căn cứ vào thỏa thuận nguyên tắc đã được ký giữa bên B và nhà cung ứng, tài sản được bàn giao giữa 3 bên, cả 3 bên sẽ ký vào biên bản nghiệm thu tài sản. 6 - Căn cứ đề nghị thanh toán của bên B và biện bản nghiệm thu tài sản bên A sẽ thanh toán cho nhà cung ứng tổng số tiền đầu tư thiết bị bao gồm thuế VAT là USD tương đương VNĐ, trong đó + Bên A tài trợ VN Đ tương đương 46% giá trị hợp đồng và phí bảo hiểm trong suốt thời gian thuê. + Phần còn lại VN Đ tương đương 54% bên B sẽ phải trả trước cho bên A để bên A thanh toán với nhà cung ứng. - Lãi suất thuê năm đầu tiên là Từ năm thứ hai trở đi áp dụng lãi suất thả nổi theo quy định của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Lãi suất quá hạn bằng 15% lãi suất trong hạn. - Phí thuê bằng số dư nợ lãi suất thuê/ quý. Trả 3 tháng một lần. * Thời hạn thuê là 30 tháng, kể từ ngày bên A thành toán món đầu tiên cho nhà cung ứng cho đến khi bên B trả hết tiền thuê và phí cho bên A. * Hợp đồng quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng trước thời hạn Hợp đồng cho thuê tài chính có thể chấm dứt trước thời hạn trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi, sửa chữa Điều 12 khoản 3. Trường hợp chấm dứt hợp đồng theo điều khoản này, sau khi bên B trả đủ số tiền thuê cho bên A theo hợp đồng thuê, khi bên A nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán thì bên A sẽ hoàn trả lại cho bên B số tiền bảo hiểm tài sản. Ngoài ra hợp đồng còn quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong đó bên A có nghĩa vụ đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản thuê. Bên B có nghĩa vụ trả đầy đủ, đúng hạn tiền thuê và lãi suất quá hạn nếu có theo đúng lịch thanh toán được ký kết kèm theo hợp đồng; thanh toán các chi phí có liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, bảo hiểm đối với tài sản thuê và các chi phí khác theo quy định của Nhà nước. Sau khi ký hợp đồng các bên còn ký tiếp 04 bản phụ lục hợp đồng nữa thống nhất lịch thanh toán tiền thuê màn hình LED và kéo dài thời hạn thuê từ 30 thành 45 tháng. 7 Để cụ thể hóa thỏa thuận nguyên tắc ngày 01/3/2002 dựa trên thỏa thuận giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc, dựa trên Hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002 ngày 10/4/2002, Công ty cho thuê tài chính đã ký “ Hợp đồng ủy thác nhập khẩu” Hợp đồng ủy thác nhập khẩu”. Theo đó Công ty cho thuê tài chính ủy thác cho Công ty quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương ký kết hợp đồng mua bán với nhà cung ứng là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc và làm các thủ tục nhập khẩu thiết bị màn hình LED nêu trên. Phí ủy thác 0%. Thực hiện hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng ủy thác nhập khẩu. Ngày 12/4/2002, Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã ký hợp đồng mua bán bảng thông tin LED với người bán là Công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Hợp đồng quy định giá trị màn hình là USD, giá trị này bao gồm Trị giá bảng LED vận chuyển đến Việt Nam, bảo hiểm lắp đặt, chạy thử, phụ tùng thay thế, bảo hành, đào tạo, huấn luyện nhân viên kỹ thuật của bên mua trong vòng hai tháng và là giá đến cảng Việt Nam. Bên mua chịu trách nhiệm chuẩn bị địa điểm cho bảng LED xây dựng, lắp đặt giá đỡ bảng LED theo thiết kế; nguồn điện với công suất yêu cầu được kéo đến địa điểm lắp đặt, chuẩn bị diện tích để làm phòng điều khiển cho màn hình… Bên bán có trách nhiệm lắp đặt màn hình trên giá đỡ do bên mua chuẩn bị, hiệu chỉnh, chạy thử và bàn giao bảng LED cho bên mua ở trạng thái hoạt động tốt phù hợp với các thông số của màn hình ghi trong báo giá chính thức của bên bán. Việc lắp đặt phải được hoàn thành 10 ngày kể từ khi bảng LED được vận chuyển đến địa điểm lắp đặt. Thời gian bảo hành là 02 năm kể từ ngày hoàn thành lắp đặt và bàn giao bảng LED cho bên mua. Trong thời gian bảo hành, bên bán có trách nhiệm sửa chữa ngay những hư hỏng của bảng LED và phải chịu các chi phí. Hai bên thỏa thuận thanh toán bằng L/C không hủy ngang 100% giá trị của màn hình là USD mở tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Về quy trình thanh toán sẽ được phân chia làm 04 lần + Lần 1 Bên bán được quyền rút 50% giá trị L/C sau khi trình bộ chứng từ sạch. 8 + Lần 2 Bên bán được quyền rút 40% giá trị L/C khi bàn giao xong phụ tùng thay thế. + Lần 3 Bên bán được quyền rút 55 giá trị L/C sau 9 tháng. + Lần 4 Bên bán được quyền rút nốt 5% giá trị L/C sau 12 tháng. Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký cho đến khi hết thời hạn bảo hành và nếu có tranh chấp sẽ chọn trọng tài thương mại quốc tế là cơ quan tài phán. Ngày 03/8/2002 đại diện của ba bên bên bán, bên mua và bên cho thuê đã ký biên bản bàn giao lắp đặt màn hình LED. Các bên xác nhận tài sản bàn giao và lắp đặt phù hợp với quy định của hợp đồng mua bán và hợp đồng cho thuê tài chính. Màn hình đã chạy thử tốt. Ngày 12/7/2002 Công ty cho thuê tài chính cũng đã làm thủ tục mua bảo hiểm cho màn hình LED nêu trên với tổn số phí là VNĐ. Thời hạn bảo hiểm là 30 tháng kể từ ngày 12/7/2002 đến hết ngày 12/01/2005 có giấy chứng nhận bảo hiểm thiết bị điện tử cấp ngày 12/7/2002. Phía Công ty Thái Bình Dương đã làm các thủ tục thanh toán tiền phí bảo hiểm đối với Công ty cho thuê tài chính. Về thanh toán Công ty cho thuê tài chính đã thanh toán cho Công ty Kumgang 90% giá trị L/C = VNĐ, còn lại 10% = USD do còn đang trong thời gian bảo hành và hợp đồng mua bán đang còn hiệu lực chưa thanh toán trong số tiền VNĐ phía Công ty Thái Bình Dương trả VNĐ, phía thuê tài chính trả VNĐ. Cuối tháng 11/2002 màn hình LED bắt đầu bộc lộ nhiều sai sót về chất lượng. Bên bán là Công ty Kumgang đã cho thay thế, sửa chữa nhưng màn hình vẫn bị hỏng liên tiếp. Nguyên nhân gây ra sự cố màn hình cũng đã được Công ty Kumgang xác định là do màn hình không khép kín và để nước mưa chảy vào trong gây hỏng các đèn điôt và các bộ mạch điện bên trong. Công ty Thái Bình Dương đã làm đơn đề nghị bảo hiểm Hà Nội phải đền bù thiệt hại, sau khi giám định, bảo hiểm Hà Nội đã có văn bản số ngày 2/7/2003 từ chối đền bù với lý do “ Tổn thất là do chất lượng linh kiện không phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam…Tổn thất này không thuộc phạm vi bảo hiểm mà thuộc trách nhiệm của người bán sản phẩm”. 9 Ngày 30/7/2003 Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã tiến hành khởi kiện tập đoàn Công ty Kumgang AD Systen Corporation ra Trung tâm trọng tài quốc tế, bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, yêu cầu Công ty Kumgang phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các thiệt hại xảy ra do chất lượng hàng cung cấp quá kém. Công ty Kumgang có lỗi với tư cách là nhà thiết kế, sản xuất lắp đặt đã không tính đến điều kiện làm việc ngoài trời của màn hình LED tại Việt Nam. Công ty Kumgang còn có lỗi vi phạm nghĩa vụ bảo hành khi được thông báo chất lượng màn hình, Công ty Kumgang thường xuyên trả lời chậm trễ. Các sự cố màn hình không được khắc phục kịp thời dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty Thái Bình Dương bị thiệt hại nhiều. Do đó buộc Công ty Kumgang phải nhận lại màn hình và hoàn trả lại tiền mua màn hinh cho Công ty Thái Bình Dương, đồng thời còn phải chịu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại và theo hợp đồng mua bán giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương với công ty Kumgang AD Systen Corporation – Hàn Quốc. Ngày 03/6/2004 Trung tâm trọng tài quốc tế đã ra phán quyết vụ kiện số 10/03 theo đó tập đoàn Kumgang phải hoàn trả số tiền mua màn hình là USD và bồi thường thiệt hại thực tế cho Công ty Thái Bình Dương là VNĐ. Công ty Kumgang đã có đơn gửi đến Tòa án xin hủy phán quyết của Trọng tài. Ngày 10/01/2004 Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao đã xử bác đơn yêu cầu xin hủy quyết định trọng tài vụ kiện số 10/03 được công bố ngày 03/6/2004 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương với Công ty Kumgang AD System Corporation – Hàn Quốc có hiệu lực. Công ty trách nhiệm hữu hạn quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã gửi đơn đến cơ quan thi hành án Hà Nội. Ngày 28/3/2005 Phòng thi hành án Hà Nội đã ra quyết định thi hành án số 48/2005 cho thi hành phán quyết của Trọng tài vụ kiện số 10/03 nêu trên. Tuy nhiên ngày 11/7/2005 cơ quan thi hành án Hà Nội đã ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án vì lý do bên phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành. Quan điểm của nguyên đơn 10 [...]... dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn đã được thỏa thuận tại mục khoản 4 Điều 12 của hợp đồng, cụ thể “Trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước hạn theo khoản 3 của Điều này, sau khi bên B Công ty Thái Bình Dương đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên A Công ty cho thuê tài chính theo hợp đồng thuê. .. chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “Điều 27 3 Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn cho thuê trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.” Khoản 4 điều 28 nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “Điều 28 4 Trong trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước hạn theo... ty cho thuê tài chính trong việc phối hợp với Công ty Thái Bình Dương đòi nợ tập đoàn Kumgang Các quy định pháp luật nội dung mà Tòa án áp dụng trong bản án Điều 61 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 “Điều 61 Cho thuê tài chính 1 Hoạt động cho thuê tài chính đối với tổ chức, cá nhân được thực hiện qua công ty cho thuê tài chính 2 Công ty cho thuê tài chính sau đây gọi là bên cho thuê sở hữu tài. .. sản thuê; b Trực tiếp nhận tài sản thuê từ người bán theo thoả thuận trong hợp đồng mua tài sản; c Lựa chọn việc tiếp tục thuê hoặc mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng cho thuê 2 Bên thuê có những nghĩa vụ sau đây a Sử dụng tài sản thuê đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê; không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác nếu không được bên cho thuê đồng. .. hoặc tiếp tục thuê theo thoả thuận trong hợp đồng cho thuê; 22 e Bên thuê không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp hoặc để bảo đảm cho bất kỳ một nghĩa vụ tài chính nào.” Điều 17 của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “Điều 17 1 Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả thuận giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê một hoặc... định rằng hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang, song Khoản 3 Điều 17 và Điều 27 của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP quy định những trường hợp ngoại lệ, các bên được chấm dứt hợp đồng trước thời hạn Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 12 của hợp đồng cho thuê tài chính số 44/2002/HĐCTTC đã quy định rõ Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước hạn trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất,... dứt hợp đồng Phán quyết trong bản án cấp sơ thẩm buộc Công ty Thái Bình Dương phải trả cho Công ty cho thuê tài chính số tiền gốc còn lại là 2 tỷ đồng và phí thuê tài chính là đồng là có căn cứ, đúng pháp luật 26 Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề pháp lý Trong bản án phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đồng. .. định này, bên cho thuê phải hoàn trả lại cho bên thuê số tiền bảo hiểm tài sản khi bên thuê đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên cho thuê và khi bên cho thuê đã nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán.” 23 III PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG BẢN ÁN Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn Phân tích giải pháp Tòa án đưa ra cho vấn đề... Công ty Thái Bình Dương phải trả hết tiền cho Công ty cho thuê tài chính Vấn đề pháp lý cần giải quyết trong vụ án Từ nội dung của vụ án, để có thể đưa ra phán quyết cho yêu cầu của các bên, Bản án của Tòa án cần giải quyết 3 vấn đề pháp lý cơ bản trong vụ án - Vấn đề pháp lý về chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn - Vấn đề pháp lý về điều khoản bảo hiểm trong hợp đồng đã ký kết... và chính các thỏa thuận của hai bên ký kết tại hợp đồng khẳng định Hợp đồng cho thuê tài chính vì Công ty Thái Bình Dương là hợp đồng không hủy ngang Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên đều đồng ý chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính nói trên Theo quy định ở điểm 3, 4 Điều 27 và khoản 4 Điều 28 Nghị định 16/NĐ-CP; ý kiến đó là đúng pháp luật, án sơ thẩm xử xác nhận việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính . hư hỏng của bảng LED và phải chịu các chi phí. Hai bên thỏa thuận thanh toán bằng L/C không hủy ngang 100% giá trị của màn hình là USD mở tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam hợp đồng khẳng định Hợp đồng cho thuê tài chính vì Công ty Thái Bình Dương là hợp đồng không hủy ngang. Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên đều đồng ý chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính nói trên. - Xem thêm -Xem thêm Bình luận bản án Ngân hàng Tranh chấp trong hợp đồng cho thuê tài chính, Bình luận bản án Ngân hàng Tranh chấp trong hợp đồng cho thuê tài chính,
Số hiệu242/2006/KDTM-PTTiêu đềBản án tranh chấp hợp đồng tín dụngNgày ban hành21/11/2006Cấp xét xửPhúc thẩmLĩnh vựcKinh tếTÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAOTÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI——————Bản án số242/2006/KDTM-PTNgày 21/11/2006V/v tranh chấp hợp đồng tín dụngCỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc ——————————— DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMTÒA PHÚC THẨMTÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘIVới thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm cóThẩm phán – Chủ tọa phiên tòa Ông Cáp Văn Chinh;Các Thẩm phán Ông Đào Văn Tiến;Ông Nguyễn Huy ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Phạm Trí Trung, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà 21 tháng 11 năm 2006, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số42/2006/TL-KDTM ngày 14 tháng 8 năm 2006 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự* Nguyên đơn Ngân hàng Công thương Việt Nam;Trụ sở 108 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà diện ông Tô Văn Chánh – Giám đốc Ngân hàng Công thương chi nhánh O, được Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc thẩm.* Bị đơn Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng;Trụ sở 201 phố Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà diện ông Nguyễn Thanh Hùng, được tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc luật sư Phan Thị Hương Thủy bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn tại phiên THẤYNgày 07-3-1995, Công ty xuất nhập khẩu sản xuất cung ứng vật tư, bộ Giao thông vận tải nay chuyển đổi là Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng có thư bảo lãnh số 142 cho Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex là đơn vị thuộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng vay tiền của Chi nhánh ngân hàng Công thương thành phố Hồ Chí Minh thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thư bảo lãnh với số tiền 10 tỷ đồng có tài khoản 710-A00477 tại Ngân hàng Công thương Việt Nam và tài khoản ngoại tệ số 362-111-37-0333 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ sự bảo lãnh này, Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã lập khế ước vay Ngân hàng như sau1. Ngày 29-7-1995 mở L/C số 0104106/T95LC91 trả chậm một năm không quy định lãi suất, nhưng có phí chuyển tiền với số tiền là USD. Từ ngày 23-8-1996 đến ngày 15-11-1996 đã trả được USD. Đến nay còn nợ gốc Khế ước số 95000634 ngày 02-10-1995 vay số tiền là đồng hai tỷ năm trăm triệu đồng và đã trả lãi trong hạn được Khế ước số 9500034 ngày 29-11-1995 vày đồng ba tỷ đồng. Chưa trả được gốc và lãi quá Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 vay đồng sáu tỷ ba trăm bảy lăm triệu đồng, hợp đồng ngoại tệ còn nợ 15-4-1997 Ngân hàng Nhà nước có công văn số 109 và ngày 26-4-1997 Ngân hàng Công thương Việt Nam có công văn số 867 cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng được khoanh nợ 5 năm là được trừ lãi đã thu vào gốc là đồng, Như vậy, tổng số tiền mà phía bị đơn đã trả được đồng tiền gốc. Còn nợ gốc sau khoanh nợ là đồng và thời gian khoanh nợ, ngày 02-02-2004 Ngân hàng Công thương đã đến Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex lập biên bản nhận nợ và hai bên đã xác nhận với nhau Sài Gòn Vietracimex còn nợ Ngân hàng là đồng tiền gốc và đồng tiền lãi quá hạn. Về ngoại tệ nợ gốc USD, lãi nợ quá hạn đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án Hà Nội, nguyên đơn đều yêu cầu Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là người bảo lãnh cho chi nhánh Sài Gòn Vietracimex vay số tiền trên của Ngân hàng từ năm 1995 đến nay chưa thanh toán phải có trách nhiệm thanh toán cho phía ngân hàng toàn bộ tiền gốc và lãi quá bị đơn ông Vũ Đức Toàn đại diện cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng trình bày ông nhất trí với lời khai của ông Đặng Đình Dũng – Giám đốc chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã trình bày tại Tòa án Hà Nội và xác nhận số nợ của chi nhánh Sài Gòn tại biên bản đối chất và hòa giải không thành ngày 07-9-2004. Trước kia Tổng công ty có thư bảo lãnh cho chi nhánh vay tiền của Ngân hàng Công thương, đã trả được một số và đã trả được khoanh nợ 5 năm, đến nay còn nợ đồng Việt Nam và USD và lãi suất quá hạn. Nhưng nay Tổng công ty không chấp nhận trả lãi, đề nghị Ngân hàng xem xét vì số tiền này Công ty đã bị một số cán bộ gây thất thoát, đã bị xét xử theo pháp luật và đến nay chưa bồi thường cho Công ty nên Công ty chưa có thể trả lại cho Ngân hàng và đề nghị Ngân hàng xem xét lãi suất quá trình giải quyết vụ kiện bị đơn chuyển đổi thành doanh nghiệp cổ phần hóa. Vì thế ngày 24-01-2005 Tòa án Hà Nội ra quyết định tạm đình chỉ số 02 với lý do chờ kết quả cơ quan khác giải quyết rồi mới giải quyết khi Tòa án Hà Nội có quyết định tạm đình chỉ ngày 27-01-2005 Ngân hàng Công thương Việt Nam đã kháng 22-02-2006, Ngân hàng Công thương Việt Nam có đơn xin rút kháng cáo tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà 06-3-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và giao hồ sơ về Tòa án Hà Nội giải quyết tiếp việc kiện. Ngày 16-3-2006 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý giải quyết tiếp vụ kiện bản án sơ thẩm số46/2006/KDTM-ST, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết địnhCăn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004,Căn cứ các Điều 361, 362, 388 Bộ luật dân sự năm 2005,Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và NĐ 70/CP của Chính phủ quy định án phí, xử1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam, toàn bộ tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng.Sau khi án có hiệu lực pháp luật, bên thanh toán chưa trả thì phải chịu lãi suất quá hạn theo quy định của pháp Bác các yêu cầu khác của các đương án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng.Tòa án cấp sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp 19-6-2006 người đại diện Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là ông Võ Nhật Thắng kháng cáo cho rằng quyết định của bản án sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết của vụ án, không đúng pháp luật, đề nghị xem xét toàn bộ vụ án sơ 20-6-2006 người đại diện Ngân hàng Công thương Việt Nam là ông Tô Văn Chánh kháng cáo cho rằng cách tính số tiền lãi trong phần quyết định của bản án sơ thẩm là không đúng với các quy định pháp luật về tín dụng, đề nghị xem xét THẤYBản án dân sự số 46 ngày 2, 5 tháng 6 năm 2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là dựa trên cơ sở chứng cứ. Có việc hai bên ký kết các hợp đồng tín dụng được lập dưới hình thức khế ước nhận nợ, gồm 03 khế Khế ước số 9500634 ngày 02-10-1995 số tiền vay nợ là 2,5 tỷ đồng. Đã trả được 625 triệu đồng còn nợ 1,875 tỷ Khế ước nhận nợ số 9500934 số tiền là 3 tỷ đồng chưa trả.3. Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 số tiền là 1,5 tỷ đồng chưa trả.Ngoài ra 03 khế ước nhận nợ trên còn một khoản nợ của thư tín dụng là USD đã trả USD còn nợ đối chiếu các khoản nợ nêu trên đã được hai bên bàn bạc và thống nhất với nhau trong các buổi làm việc được lập thành biên bản có trong hồ sơ. Và tại các biên bản hòa giải không thành cũng đều có ghi rõ các khoản nợ đó. Từ đó mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định buộc bị đơn phải thanh toán trả nguyên đơn khoản tiền còn nợ cả gốc và phiên tòa phúc thẩm hôm nay phía bị đơn đã phản bác lại quyết đinh của án sơ thẩm cụ thể những vấn đề sauThứ nhất là về chủ thể trong quan hệ dân sự phía bị đơn cho rằng các văn bản bảo lãnh của Tổng công ty chỉ bảo lãnh cho đến hết thời hạn khi mà công ty đã chuyển sang hợp nhất là ngày 27-11-1995. Còn các khế ước ký sau ngày đó là không có hiệu đề nữa là đối với việc bảo lãnh thư tín dụng không thuộc trong diện bảo lãnh của văn bản bảo lãnh 142 của Tổng công ty đối với chi nhánh, cho nên Tổng công ty không chịu trách thấy trong quan hệ về việc dân sự trong vụ án này giữa Tổng công ty và công ty chi nhánh phải được xét theo nguyên tắc thực hiện của Luật Doanh nghiệp năm 1995. Luật có hiệu lực từ Điều 19 của luật có quy định – chi nhánh của doanh nghiệp Nhà nước không có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp Nhà nước chịu trách nhiệm dân sự đối với chi nhánh của doanh thì mọi quy định của Tổng công ty đối với chi nhánh mà trái với quy định của điều luật đều không được pháp luật thừa nhận – mà chỉ có giá trị trong nội bộ của Tổng công ty mà thôi. Đối chiếu với trường hợp cụ thể này thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là bị đơn trong vụ án này phải chịu trách nhiệm dân sự với mọi trường hợp của chi nhánh trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình, còn mọi quy định về trách nhiệm mà chi nhánh làm sai thì chi nhánh chịu trách nhiệm đối với Tổng công phân tích trên thấy án sơ thẩm xác định Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu trách nhiệm trả nợ gốc đối với Ngân hàng Công thương chi nhánh I thành phố Hồ Chí Minh về cả 03 khế ước và khoản nợ theo thư tín dụng là đúng vì các khế ước và thư tín dụng đều được lập kể từ sau ngày Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1999 có hiệu lực thi việc quy định tại Điều 19 của Luật doanh nghiệp Nhà nước đã viện dẫn ở trên thì nay Tổng công ty đã tiến hành cổ phần hóa thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng cũng vẫn phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ trên vì tại Điều 8 Nghị đình số 187/2004 ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành Công ty cổ phần của Chính phủ có quy định tại Điều 8 Nguyên tắc kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty cổ phần được chuyển đổi từ Công ty Nhà nước“1. …2. Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hóa để tổ chức sản xuất, kinh doanh kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm của Công ty Nhà nước trước khi cổ phần hóa và có các quyền nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”Thứ hai xét về nội dung để quy kết có trách nhiệm trả nợ thì thấyTại phiên tòa cũng như những chứng cứ mà phía bị đơn xuất trình đều đã được xem xét tại phiên tòa. Cụ thể các khế ước nhận nợ là đều có, có việc chi nhánh đã nhận tiền vay bằng séc. Sau đó nhập về quỹ của Công ty và tiếp đó chuyển về Ngân hàng Công thương chi nhánh IV. Tiếp đó chuyển trả nợ vay về Ngân hàng Công thương chi nhánh I, nhưng tất cả số tiền chuyển trả theo cách lập phiếu ủy nhiệm chi, nhưng là chuyển trả vào khoản nợ vay trước đó. Cụ thể khi vay thì vay từ tài khoản có ký hiệu …B, khi trả thì chuyển về tài khoản có ký hiệu …A, hai tài khoản này khác nhau nên không được coi là đã trả nợ xong, vì trên thực tế thì chi nhánh còn nợ Ngân hàng Công thương chi nhánh I nhiều món nợ trước đó chưa trả. Vì theo nghiệp vụ ngân hàng quy định mỗi khế ước vay đều có mã số tài khoản của khế ước đó nên khi vay ở khế ước nào thì khi trả phải trả đúng vào khế ước đó mới được công nhận là có khoản thanh toán khoản tiền nợ mở thư tín dụngXem xét trên thực tế thì Ngân hàng đã thanh toán trả chủ hàng Hàn Quốc toàn bộ số tiền theo như hợp đồng. Còn phía Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex mới thanh toán trả về cho Ngân hàng 03 phiếu theo như Ngân hàng đã xuất trình. Nay phía bị đơn chỉ chứng minh được mới chuyển trả tiền về đến Ngân hàng Công thương IV nhưng cũng vẫn chưa đủ, nên không có căn cứ là đã thanh toán xong mà chỉ có căn cứ như án sơ thẩm đã quyết về khoản nợ này là chính cứ vào việc chứng minh rằng những chứng cứ mà phía nguyên đơn xuất trình thì thấy việc thừa nhận của bị đơn trước đây trong quá trình xây dựng hồ sơ trong các lời khai và trong các buổi hòa giải đều thừa nhận là còn nợ các khoản tiền theo như án sơ thẩm đã quy kết là hoàn toàn khoản tiền lãi bản án sơ thẩm đã căn cứ vào đề nghị của phía nguyên đơn trên cơ sở tại các đơn khởi kiện và các văn bản mà phía ngân hàng đã dựa trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước để tính mức lãi suất là có căn cứ nay phía Ngân hàng đề nghị được tính với mức lãi suất cao hơn theo một mức như ở tại đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm là không thể chấp nhận được mà cần giữ nguyên khoản tiền lãi như án sơ thẩm đã quyết các lẽ trên,Căn cứ vào khoản 3 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân ĐỊNHKhông chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn và đơn kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.– Căn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.– Căn cứ các Điều 361, 362, 363, 388 Bộ luật dân sự năm 2005.– Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và Nghị định 70 của Chính phủ quy định về án Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam toàn bộ số tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng, tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám mươi ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng.Kể từ ngày bản có có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong bản án tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi Bác các yêu cầu khác của các đương án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng.Ngân hàng Công thương Việt Nam được lấy lại dự phí kháng cáo đã nộp đồng Mười lăm triệu đồng tại tài khoản số kho bạc Hà Nội của Phòng thi hành án dân sự Hà đương sự kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí phúc thẩm dân sự kinh tế mỗi đương sự là đồng. Được trừ vào khoản tiền dự phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 007395 ngày 26-6-2006 và biên lai số 007389 ngày 19-6-2006 của Phòng thi hành án thành phố Hà án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên nhận– TAND thành phố Hà Nội– VKSNDTC Viện PT1– VKSND thành phố Hà Nội– CQTHADS Hà Nội– Nguyên đơn theo đ/c– Bị đơn theo đ/c– Lưu 2b ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨMTHẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒACáp Văn ChinhĐã ký
Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa ... D T chủ sở ký kết Hợp đồng mua bán hàng hoá số 1905 HQ06 ngày 19/5/2010 Phụ lục Hợp đồng số 1905 PLHQ ngày 27/6/2010 Nội dung hợp đồng Cửa hàng âm - ánh sáng - nhạc cụ DT bán cho Công ty TL 08 ... cư trú khác toán cho người cư trú tiền xuất hàng hoá dịch vụ; - Các trường hợp khác Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, chấp thuận VỤ VIỆC SỐ Tranh chấp hợp đồng mua bán thiết bị điện ... lượng tấn, đơn giá đồng/ tấn, tổng giá trị hợp đồng đồng Tổng giá trị hai hợp đồng đồng Thực hợp đồng, HN toán cho Ánh P chuyển khoản lần từ ngày 22/3/2009... 16 4,195 24 Tiểu luận "Kỹ năng của luật sư trong hoạt động tranh tụng giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở" ... đồng mua bán nhà ở, người khởi kiện lại vị trí mối quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp Kỹ luật sư thủ tục hỏi vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Trong vụ án tranh chấp mua bán nhà ở, luật sư ... tụng giải vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở, trước hết luật sư cần nắm vững tổng hợp văn pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán nhà giải tranh chấp mua bán nhà bao gồm - Bộ Luật ... thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp người nhờ thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp chồng chéo việc mua bán nhà với chuyển quyền sử dụng đất; tranh chấp thời hạn bàn giao nhà, tiền hợp đồng... 12 1,178 5 Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong hoạt động tranh tụng giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở potx ... tụng giải vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở, trước hết luật sư cần nắm vững tổng hợp văn pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán nhà giải tranh chấp mua bán nhà bao gồm - Bộ Luật ... thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp người nhờ thực hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp chồng chéo việc mua bán nhà với chuyển quyền sử dụng đất; tranh chấp thời hạn bàn giao nhà, tiền hợp đồng ... tụng vụ án giải tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Có thể phác thảo tương đối dạng tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở, gồm tranh chấp chủ sở hữu nhà thực tế với chủ sở hữu nhà giấy tờ, trường hợp người... 12 809 0 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng nhà ở ... đủ sở xác định quan hệ hợp đồng xác lập ngày 20/3/2006 bà B ông M hợp đồng mua bán nhà, quan hệ hợp đồng vay tài sản * Luật nội dung áp dụng giải tranh chấp tính hợp pháp hợp đồng mua bán nhà ... thức hợp đồng mua bán nhà 16 Hợp đồng mua bán nhà phải lập thành văn bản, có chứng nhận Công chứng nhà nước chứng thực Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền Về nội dung hợp đồng Đối tượng hợp đồng nhà ... xác lập hợp đồng mua bán nhà số tiền bên mua bên bán thỏa thuận đưa vào hợp đồng tiền mua nhà Nên hợp đồng mua bán nhà ghi rõ ông T - bà K nhận USD đồng đồng nhận... 26 1,852 12 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng đại lý thương mại ... bên toán Tuy nhiên quan điểm không bởi Hợp đồng đại lý hai bên hợp đồng thương mại, trước hết chịu điều chỉnh Luật Thương mại năm 2005 Tương tự tranh chấp số 3, hợp đồng đại lý hợp đồng đại lý ... mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý Trong trường hợp thời gian đại lý năm khoản bồi thường tính tháng thù lao đại lý trung bình thời gian nhận đại lý Trường hợp hợp đồng đại lý chấm ... thường tháng thù lao đại lý trung bình thời gian nhận đại lý cho năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý Trong trường hợp thời gian đại lý năm khoản bồi thường tính tháng thù lao đại lý trung... 20 3,767 20 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng xây dựng ... án nước theo quy định tại Điều 412 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự VỤ VIỆC SỐ Tranh chấp hợp đồng thi công xây ... quy định tại Điều 168 của Bộ luật VỤ VIỆC SỐ Tranh chấp hợp đồng giao nhận thầu khí lắp dựng công trình Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng thương mại dịch vụ T sau viết tắt Công ty T ... quan đến hợp đồng xây dựng với Công ty Song H, có quyền tham gia tố tụng Toà án cần thiết” Sau nhiều lần hai bên thương lượng không thành, Công ty Song H khởi kiện bà Phạm K Toà án để yêu... 14 1,603 3 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm ... doanh bảo hiểm năm 2000 quy định Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh hợp đồng bảo hiểm giao kết có chứng doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm, trừ trường hợp ... bảo hiểm điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ bên mua bảo hiểm; b Cấp cho bên mua bảo hiểm Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm sau giao kết hợp đồng bảo hiểm; c Trả tiền bảo hiểm ... thuận hợp đồng bảo hiểm Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo văn cho doanh nghiệp bảo hiểm việc chuyển nhượng doanh nghiệp bảo hiểm có văn chấp... 16 1,880 8 Bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng ... dụng tạm tính đến ngày 07/9/2007, cụ thể sau a Hợp đồng tín dụng số số 97/2003/HĐTD-PVFC-10 ký ngày 20/10/2003 - Vốn vay chưa hoàn trả đồng - Lãi chưa toán đồng b Hợp ... SỐ Tranh chấp hợp đồng tín dụng Ngân hàng H với Công ty cổ phần thương mại phát triển gia súc T gọi tắt Công ty T Tóm tắt nội dung vụ việc Ngân hàng H Công ty T có ký kết hợp đồng tín dụng, ... Hợp đồng tín dụng số 09/HĐTD ngày 24/6/2007 với số tiền vay đồng, thời hạn vay 60 tháng, ngày trả hết nợ lãi gốc 24/6/2009 Ngày 16/6/2007 hai bên ký kết hợp đồng chấp quyền sử dụng... 14 4,808 12 Bình luận bản án tranh chấp Hợp đồng vận chuyển ... Ký hợp đồng góp vốn hợp đồng hợp tác đầu tư với chủ đầu tư cấp II nhằm mục đích chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư cấp II; c Ký hợp đồng, văn góp vốn hợp đồng, ... tranh chấp hợp đồng vận chuyển tranh chấp bồi thường thiệt hại hợp đồng Vì vậy, cần xác định bị đơn vụ kiện ông Nguyễn Quang C ông Nguyễn Thanh H Điều 439 BLDS năm 2005 quy định Thời điểm chuyển ... thường thiệt hại hợp đồng trách nhiệm chủ xe giới, theo nguyên đơn Công ty B bị đơn ông Nguyễn Thanh H Bình luận - Việc xác định tranh chấp bồi thường thiệt hại hợp đồng không Công ty Bình M với chủ... 15 1,708 4 Vụ tranh chấp hợp đồng mua bán gạo giữa hai công ty Galluck limited và công ty xuất nhập khẩu lương thực Hà Nội đã khởi kiện lên toà án thành phố Hà Nội ... mua Và Công ty Xuất nhập lương thực Hà Nội VINAFOODHANOI 40 đường Hai Bà Trưng - Hà Nội - Việt Nam Tel 256771, Telex 411526 - VNF VTĐược gọi Người bán Hai bên đồng ý hợp đồng mua bán gạo ... bên ký kết hợp lệ Do hai bên có tranh chấp hợp đồng mua bán gạo nên toà n xử theo quy định pháp luật IV MỘTVÀISUYNGHĨCỦASINHVIÊN Việc tranh chấp hợp đồng mua bán gạo giải sau Theo hợp đồng ký kết ... Galluck Limited Toà n cử số cán xem xét lại hợp đồng giấy tờ có liên quan đến hai công ty Vina Food Galluck Sau thời gian ngắn xem xét, To án thành phố Hà Nội nhận định Toàn giấy tờ hợp đồng mà hai... 13 1,037 4 Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại tòa án nhân dân thành phố hà nội ... I HC QUC GIA H NI KHOA LUT TRNG TH H Giải tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hà Nội Chuyờn ngnh Lut Kinh t Mó s 60 38 01 07 LUN ... quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa 36 Trỡnh t th tc gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm theo phỏp lut Vit Nam 37 Tỡnh hỡnh gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn ... gii quyt tranh chp So sỏnh vic xột x s thm tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm vi vic xột x tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc phỳc thm Vic th lý v xột x v ỏn theo th... 119 1,396 8 Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại tòa án nhân dân thành phố hà nội ... I HC QUC GIA H NI KHOA LUT TRNG TH H Giải tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm Toà án nhân dân thành phố Hà Nội Chuyờn ngnh Lut Kinh t Mó s 60 38 01 07 LUN ... quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa 10 Trỡnh t th tc gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm theo phỏp lut Vit Nam 10 Tỡnh hỡnh gii quyt tranh chp hp ng mua bỏn ... vi cỏc hỡnh thc gii quyt tranh chp khỏc 10 So sỏnh vic xột x s thm tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc s thm vi vic xột x tranh chp hp ng mua bỏn hng húa theo th tc phỳc thm ... 23 532 1 Xem thêm
Số hiệu 242/2006/KDTM-PT Tiêu đề Bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng Ngày ban hành 21/11/2006 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Kinh tế TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI - Bản án số242/2006/KDTM-PT Ngày 21/11/2006 V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc - NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa Ông Cáp Văn Chinh; Các Thẩm phán Ông Đào Văn Tiến; Ông Nguyễn Huy Chương. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Phạm Trí Trung, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Ngày 21 tháng 11 năm 2006, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số42/2006/TL-KDTM ngày 14 tháng 8 năm 2006 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các đương sự * Nguyên đơn Ngân hàng Công thương Việt Nam; Trụ sở 108 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đại diện ông Tô Văn Chánh – Giám đốc Ngân hàng Công thương chi nhánh O, được Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc thẩm. * Bị đơn Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng; Trụ sở 201 phố Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đại diện ông Nguyễn Thanh Hùng, được tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng ủy quyền tham gia tại phiên tòa phúc thẩm. Có luật sư Phan Thị Hương Thủy bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn tại phiên tòa. NHẬN THẤY Ngày 07-3-1995, Công ty xuất nhập khẩu sản xuất cung ứng vật tư, bộ Giao thông vận tải nay chuyển đổi là Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng có thư bảo lãnh số 142 cho Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex là đơn vị thuộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng vay tiền của Chi nhánh ngân hàng Công thương thành phố Hồ Chí Minh thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thư bảo lãnh với số tiền 10 tỷ đồng có tài khoản 710-A00477 tại Ngân hàng Công thương Việt Nam và tài khoản ngoại tệ số 362-111-37-0333 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ sự bảo lãnh này, Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã lập khế ước vay Ngân hàng như sau 1. Ngày 29-7-1995 mở L/C số 0104106/T95LC91 trả chậm một năm không quy định lãi suất, nhưng có phí chuyển tiền với số tiền là USD. Từ ngày 23-8-1996 đến ngày 15-11-1996 đã trả được USD. Đến nay còn nợ gốc USD. 2. Khế ước số 95000634 ngày 02-10-1995 vay số tiền là đồng hai tỷ năm trăm triệu đồng và đã trả lãi trong hạn được đồng. 3. Khế ước số 9500034 ngày 29-11-1995 vày đồng ba tỷ đồng. Chưa trả được gốc và lãi quá hạn. 4. Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 vay đồng sáu tỷ ba trăm bảy lăm triệu đồng, hợp đồng ngoại tệ còn nợ USD. Ngày 15-4-1997 Ngân hàng Nhà nước có công văn số 109 và ngày 26-4-1997 Ngân hàng Công thương Việt Nam có công văn số 867 cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng được khoanh nợ 5 năm là được trừ lãi đã thu vào gốc là đồng, Như vậy, tổng số tiền mà phía bị đơn đã trả được đồng tiền gốc. Còn nợ gốc sau khoanh nợ là đồng và USD. Hết thời gian khoanh nợ, ngày 02-02-2004 Ngân hàng Công thương đã đến Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex lập biên bản nhận nợ và hai bên đã xác nhận với nhau Sài Gòn Vietracimex còn nợ Ngân hàng là đồng tiền gốc và đồng tiền lãi quá hạn. Về ngoại tệ nợ gốc USD, lãi nợ quá hạn USD. Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án Hà Nội, nguyên đơn đều yêu cầu Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là người bảo lãnh cho chi nhánh Sài Gòn Vietracimex vay số tiền trên của Ngân hàng từ năm 1995 đến nay chưa thanh toán phải có trách nhiệm thanh toán cho phía ngân hàng toàn bộ tiền gốc và lãi quá hạn. Phía bị đơn ông Vũ Đức Toàn đại diện cho Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng trình bày ông nhất trí với lời khai của ông Đặng Đình Dũng – Giám đốc chi nhánh Sài Gòn Vietracimex đã trình bày tại Tòa án Hà Nội và xác nhận số nợ của chi nhánh Sài Gòn tại biên bản đối chất và hòa giải không thành ngày 07-9-2004. Trước kia Tổng công ty có thư bảo lãnh cho chi nhánh vay tiền của Ngân hàng Công thương, đã trả được một số và đã trả được khoanh nợ 5 năm, đến nay còn nợ đồng Việt Nam và USD và lãi suất quá hạn. Nhưng nay Tổng công ty không chấp nhận trả lãi, đề nghị Ngân hàng xem xét vì số tiền này Công ty đã bị một số cán bộ gây thất thoát, đã bị xét xử theo pháp luật và đến nay chưa bồi thường cho Công ty nên Công ty chưa có thể trả lại cho Ngân hàng và đề nghị Ngân hàng xem xét lãi suất quá hạn. Quá trình giải quyết vụ kiện bị đơn chuyển đổi thành doanh nghiệp cổ phần hóa. Vì thế ngày 24-01-2005 Tòa án Hà Nội ra quyết định tạm đình chỉ số 02 với lý do chờ kết quả cơ quan khác giải quyết rồi mới giải quyết tiếp. Sau khi Tòa án Hà Nội có quyết định tạm đình chỉ ngày 27-01-2005 Ngân hàng Công thương Việt Nam đã kháng cáo. Ngày 22-02-2006, Ngân hàng Công thương Việt Nam có đơn xin rút kháng cáo tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Ngày 06-3-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và giao hồ sơ về Tòa án Hà Nội giải quyết tiếp việc kiện. Ngày 16-3-2006 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý giải quyết tiếp vụ kiện trên. Tại bản án sơ thẩm số46/2006/KDTM-ST, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định Căn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Căn cứ các Điều 361, 362, 388 Bộ luật dân sự năm 2005, Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và NĐ 70/CP của Chính phủ quy định án phí, xử 1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2. Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam, toàn bộ tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, bên thanh toán chưa trả thì phải chịu lãi suất quá hạn theo quy định của pháp luật. 3. Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Về án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng. Tòa án cấp sơ thẩm còn thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 19-6-2006 người đại diện Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là ông Võ Nhật Thắng kháng cáo cho rằng quyết định của bản án sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết của vụ án, không đúng pháp luật, đề nghị xem xét toàn bộ vụ án sơ thẩm. Ngày 20-6-2006 người đại diện Ngân hàng Công thương Việt Nam là ông Tô Văn Chánh kháng cáo cho rằng cách tính số tiền lãi trong phần quyết định của bản án sơ thẩm là không đúng với các quy định pháp luật về tín dụng, đề nghị xem xét lại. XÉT THẤY Bản án dân sự số 46 ngày 2, 5 tháng 6 năm 2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam và Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là dựa trên cơ sở chứng cứ. Có việc hai bên ký kết các hợp đồng tín dụng được lập dưới hình thức khế ước nhận nợ, gồm 03 khế ước. 1. Khế ước số 9500634 ngày 02-10-1995 số tiền vay nợ là 2,5 tỷ đồng. Đã trả được 625 triệu đồng còn nợ 1,875 tỷ đồng. 2. Khế ước nhận nợ số 9500934 số tiền là 3 tỷ đồng chưa trả. 3. Khế ước số 9501051 ngày 26-12-1995 số tiền là 1,5 tỷ đồng chưa trả. Ngoài ra 03 khế ước nhận nợ trên còn một khoản nợ của thư tín dụng là USD đã trả USD còn nợ USD. Việc đối chiếu các khoản nợ nêu trên đã được hai bên bàn bạc và thống nhất với nhau trong các buổi làm việc được lập thành biên bản có trong hồ sơ. Và tại các biên bản hòa giải không thành cũng đều có ghi rõ các khoản nợ đó. Từ đó mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định buộc bị đơn phải thanh toán trả nguyên đơn khoản tiền còn nợ cả gốc và lãi. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phía bị đơn đã phản bác lại quyết đinh của án sơ thẩm cụ thể những vấn đề sau Thứ nhất là về chủ thể trong quan hệ dân sự phía bị đơn cho rằng các văn bản bảo lãnh của Tổng công ty chỉ bảo lãnh cho đến hết thời hạn khi mà công ty đã chuyển sang hợp nhất là ngày 27-11-1995. Còn các khế ước ký sau ngày đó là không có hiệu lực. Vấn đề nữa là đối với việc bảo lãnh thư tín dụng không thuộc trong diện bảo lãnh của văn bản bảo lãnh 142 của Tổng công ty đối với chi nhánh, cho nên Tổng công ty không chịu trách nhiệm. Xét thấy trong quan hệ về việc dân sự trong vụ án này giữa Tổng công ty và công ty chi nhánh phải được xét theo nguyên tắc thực hiện của Luật Doanh nghiệp năm 1995. Luật có hiệu lực từ 20-4-1995. Tại Điều 19 của luật có quy định – chi nhánh của doanh nghiệp Nhà nước không có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp Nhà nước chịu trách nhiệm dân sự đối với chi nhánh của doanh nghiệp. Vậy thì mọi quy định của Tổng công ty đối với chi nhánh mà trái với quy định của điều luật đều không được pháp luật thừa nhận – mà chỉ có giá trị trong nội bộ của Tổng công ty mà thôi. Đối chiếu với trường hợp cụ thể này thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng là bị đơn trong vụ án này phải chịu trách nhiệm dân sự với mọi trường hợp của chi nhánh trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình, còn mọi quy định về trách nhiệm mà chi nhánh làm sai thì chi nhánh chịu trách nhiệm đối với Tổng công ty. Từ phân tích trên thấy án sơ thẩm xác định Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu trách nhiệm trả nợ gốc đối với Ngân hàng Công thương chi nhánh I thành phố Hồ Chí Minh về cả 03 khế ước và khoản nợ theo thư tín dụng là đúng vì các khế ước và thư tín dụng đều được lập kể từ sau ngày Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1999 có hiệu lực thi hành. Ngoài việc quy định tại Điều 19 của Luật doanh nghiệp Nhà nước đã viện dẫn ở trên thì nay Tổng công ty đã tiến hành cổ phần hóa thì Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng cũng vẫn phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ trên vì tại Điều 8 Nghị đình số 187/2004 ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành Công ty cổ phần của Chính phủ có quy định tại Điều 8 Nguyên tắc kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty cổ phần được chuyển đổi từ Công ty Nhà nước “1. … 2. Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hóa để tổ chức sản xuất, kinh doanh kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm của Công ty Nhà nước trước khi cổ phần hóa và có các quyền nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.” Thứ hai xét về nội dung để quy kết có trách nhiệm trả nợ thì thấy Tại phiên tòa cũng như những chứng cứ mà phía bị đơn xuất trình đều đã được xem xét tại phiên tòa. Cụ thể các khế ước nhận nợ là đều có, có việc chi nhánh đã nhận tiền vay bằng séc. Sau đó nhập về quỹ của Công ty và tiếp đó chuyển về Ngân hàng Công thương chi nhánh IV. Tiếp đó chuyển trả nợ vay về Ngân hàng Công thương chi nhánh I, nhưng tất cả số tiền chuyển trả theo cách lập phiếu ủy nhiệm chi, nhưng là chuyển trả vào khoản nợ vay trước đó. Cụ thể khi vay thì vay từ tài khoản có ký hiệu …B, khi trả thì chuyển về tài khoản có ký hiệu …A, hai tài khoản này khác nhau nên không được coi là đã trả nợ xong, vì trên thực tế thì chi nhánh còn nợ Ngân hàng Công thương chi nhánh I nhiều món nợ trước đó chưa trả. Vì theo nghiệp vụ ngân hàng quy định mỗi khế ước vay đều có mã số tài khoản của khế ước đó nên khi vay ở khế ước nào thì khi trả phải trả đúng vào khế ước đó mới được công nhận là có trả. Về khoản thanh toán khoản tiền nợ mở thư tín dụng Xem xét trên thực tế thì Ngân hàng đã thanh toán trả chủ hàng Hàn Quốc toàn bộ số tiền theo như hợp đồng. Còn phía Chi nhánh Sài Gòn Vietracimex mới thanh toán trả về cho Ngân hàng 03 phiếu theo như Ngân hàng đã xuất trình. Nay phía bị đơn chỉ chứng minh được mới chuyển trả tiền về đến Ngân hàng Công thương IV nhưng cũng vẫn chưa đủ, nên không có căn cứ là đã thanh toán xong mà chỉ có căn cứ như án sơ thẩm đã quyết về khoản nợ này là chính xác. Căn cứ vào việc chứng minh rằng những chứng cứ mà phía nguyên đơn xuất trình thì thấy việc thừa nhận của bị đơn trước đây trong quá trình xây dựng hồ sơ trong các lời khai và trong các buổi hòa giải đều thừa nhận là còn nợ các khoản tiền theo như án sơ thẩm đã quy kết là hoàn toàn đúng. Về khoản tiền lãi bản án sơ thẩm đã căn cứ vào đề nghị của phía nguyên đơn trên cơ sở tại các đơn khởi kiện và các văn bản mà phía ngân hàng đã dựa trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước để tính mức lãi suất là có căn cứ nay phía Ngân hàng đề nghị được tính với mức lãi suất cao hơn theo một mức như ở tại đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm là không thể chấp nhận được mà cần giữ nguyên khoản tiền lãi như án sơ thẩm đã quyết định. Bởi các lẽ trên, Căn cứ vào khoản 3 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự. QUYẾT ĐỊNH Không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn và đơn kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm. - Căn cứ các Điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. - Căn cứ các Điều 361, 362, 363, 388 Bộ luật dân sự năm 2005. - Căn cứ các Điều 51, 54, 56, 60 Luật tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 và Nghị định 70 của Chính phủ quy định về án phí. 1. Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2. Buộc Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng Vietracimex có trách nhiệm thanh toán trả Ngân hàng Công thương Việt Nam toàn bộ số tiền gốc và lãi quá hạn còn nợ trong các hợp đồng tín dụng, tổng cộng là đồng mười tỷ bảy trăm tám mươi ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi hai đồng. Kể từ ngày bản có có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong bản án tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành. 3. Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Về án phí Tổng công ty cổ phần thương mại xây dựng phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là đồng ba mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn một trăm ba mươi ba đồng. Ngân hàng Công thương Việt Nam được lấy lại dự phí kháng cáo đã nộp đồng Mười lăm triệu đồng tại tài khoản số kho bạc Hà Nội của Phòng thi hành án dân sự Hà Nội. Các đương sự kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí phúc thẩm dân sự kinh tế mỗi đương sự là đồng. Được trừ vào khoản tiền dự phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 007395 ngày 26-6-2006 và biên lai số 007389 ngày 19-6-2006 của Phòng thi hành án thành phố Hà Nội. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận - TAND thành phố Hà Nội - VKSNDTC Viện PT1 - VKSND thành phố Hà Nội - CQTHADS Hà Nội - Nguyên đơn theo đ/c - Bị đơn theo đ/c - Lưu 2b ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Cáp Văn Chinh Đã ký
bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng