áp xe gan amip
Khi amip vào máu đi đến gan gây áp xe gan. Đây là biến chứng hay gặp và cũng là một trong các biến chứng nguy hiểm nhất khi bị bệnh kiết lỵ. Có hai loại áp xe gan do lỵ amip: áp xe gan lan tỏa tiền mủ và áp xe gan amip. Loại áp xe gan lan tỏa tiền mủ khởi đầu là rất nặng
2.1 Áp xe gan do amip thể điển hình. Triệu chứng áp xe gan do amip thể điển hình: Sốt: Người bệnh có thể sốt nhẹ từ 37,5 độ C đến sốt cao 40 độ C. Đây là triệu chứng thường gặp và xuất hiện đầu tiên. Đau vùng gan và hạ sườn phải: Người bệnh có thể đau từ
Trên động cơ của Territory tại Việt Nam có in mã JX4G15B5L của JMC Trung Quốc. Theo công bố của nhà sản xuất, xe có công suất 160 PS và mô-men xoắn 248 Nm. Động cơ Focus có công suất 180 PS và mô-men xoắn 240 Nm. Theo ông Iain Jones, Ecoboost chỉ là tên thương hiệu. Bất cứ nâng cấp
Áp xe bụng trong bụng - Căn nguyên, sinh lý bệnh, triệu chứng, dấu hiệu, chẩn đoán và tiên lượng của Cẩm nang MSD - Phiên bản dành cho chuyên gia y tế.
Điều trị áp xe gan amip. Áp xe gan amip là vị trí hay gặp nhất của nhiễm amip ngoài ruột nhưng chỉ xảy ra dưới 1% trường hợp nhiễm Entermoeba histolytica. Áp xe gan amip thường có một ổ và thường gặp ở thùy gan phải. Ổ áp xe với đặc trưng thành mỏng, vùng hoại tử trung
Partnersuche Im Internet Kostenlos Ohne Anmeldung.
Phần chung Áp xe gan là do tổ chức tế bào gan bị phá hủy tạo thành ổ mủ ở gan. Từ năm 200 sau công nguyên Golien đã mô tả áp xe gan. Đến năm 1631 Bonfius người Hà Lan đầu tiên nói về áp xe gan vùng Viễn Đông. Từ đấy ở Ấn Độ hình thành một trung tâm nghiên cứu áp xe gan, cũng từ đấy nhiều công trình nghiên cứu cho thấy áp xe gan là một trong những nguyên nhân gây nhiều tử vong. Theo Eppinger Trong 7326 trường hợp mổ tử thi thì 1,47% chết do áp xe gan. Kobler mổ tử thi 1724 thấy 0,46%% có áp xe gan. Các thông báo nói trên càng làm cho các nhà y học tích cực tìm kiếm nguyên nhân để điều trị có hiêụ quả áp xe gan. Năm 1875 Kensel và Kiener thống kê áp xe gan vùng nhiệt đới. Cũng năm đó 1875 Losh tìm thấy amip trong phân người bị bệnh lị và 8 năm sau 1885 Koch tìm được amip trong mao mạch gan và thành ổ mủ ở gan. Từ đấy mở ra một hướng mới trong nghiên cứu áp xe gan do amip. Ngày nay nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật việc chẩn đoán điều trị áp xe gan trở nên dễ dàng và có hiệu quả hơn. Tuy vậy chọn phương pháp điều trị phải trên cơ sở nguyên nhân gây bệnh. Người ta chia ra 2 loại áp xe gan Áp xe gan do vi khuẩn. Áp xe gan do amíp. Chúng ta sẽ xem xét từng loại áp xe gan nói trên. Áp xe gan do vi khuẩn Tác nhân gây bệnh Do vi khuẩn xâm nhập vào gan, làm viêm và hoại tử tế bào gan, tạo nên những ổ mủ trong gan. Vi khuẩn thường thấy là Staphilocoque, Streptocoque, trực khuẩn đường ruột Salmonella có lúc thấy cả vi khuẩn kỵ khí. Có tác giả thấy cả nấm tóc Leptothix. Vi khuẩn vào gan bằng nhiều đường khác nhau Theo đường mật Đây là biến chứng của các bệnh lý đường mật như sỏi mật, giun chui ống mật, các bệnh gây chít hẹp và ứ mật lâu ngày. Theo đường tĩnh mạch gánh Tất cả các viêm nhiễm trong ổ bụng nhất là ổ áp xe, vi khuẩn có thể theo tĩnh mạch gánh có thể khu trú tại gan. Vi khuẩn vàogan theo đường bạch mạch, động mạch gan Vì thể bất cứ một nhiễm khuẩn nào đó trong cơ thể đều có thể gây áp xe gan Viêm hạch, nhọt, hậu bối, các chấn thương đặc biệt là nhiễm khuẩn huyết nói chung. Ở các bệnh nhân này có thể thấy mủ rải rác như ở phổi, não, cơ, thận và các ổ mủ trong gan hay gặp, nhất là nhiễm khuẩn huyết. Đặc điểm của áp xe gan vi khuẩn Là nhiều ổ mủ có kích thước khác nhau, nằm rải rác trong toàn bộ gan. Cũng có lúc chỉ thấy ở một thùy nào đó nhưng vẫn là nhiều ổ to nhỏ tập chung thành một khối. Chuẩn đoán áp xe gan do vi khuẩn Dựa vào bảng lâm sàng của bệnh chính. Các triệu chứng áp xe gan như đau hạ sườn phải gan to, ấn kẽ sườn đau, Xquang hoặc siêu âm có ổ mủ ở gan..v.. thể hiện năng thêm của bệnh chính ban đầu. Điều trị – nguyên tắc Dùng kháng sinh mạnh cộng với can thiệp ngoại khoa thích hợp theo tính chất của bệnh gây nên áp xe gan. Áp xe gan amíp Năm 1883 áp xe gan amíp lỵ trực khuẩn gây nên được khẳng định. Các công trình nghiên cứu tiếp theo cho thấy amíp lỵ đã xuyên qua thành ruột, theo các mao tĩnh mạch rồi theo tĩnh mạch gánh vào gan, phá hủy tế bào gan tạo nên những ổ mủ lớn. Đặc biệt của áp xe gan này là Chỉ có tác nhân là con amíp, không có vi khuẩn trong mủ. Đây là điều được khẳng định vì vậy một số tác giả còn gọi áp xe gan amíp là áp xe gan vô khuẩn. Áp xe gan do amíp là loại ổ lớn Thường chỉ một ổ mủ, có thể thấy 2-3 ổ mủ nhưng ít. Hay gặp ở thùy phải vì tĩnh mạch gánh bên phải to thẳng và ngắn hơn. Mủ quánh, không thối và thường có màu đặc biệt thường là mà u sôcôla. Khi có nhiễm khuẩn kèm theo thì màu sắc biến đổi. Những năm gần đây một câu hỏi đặc biệt là áp xe gan do amíp có vi khuẩn không? Huard- Mayru cho rằng 1/10 số áp xe gan do amíp có vi khuẩn, số tác giả cho rằng có vi khuẩn là do bội nhiễm. Dù ở phương diện nào thì nhiều tác giải thống nhất nên dùng thuốc đặc hiệu + kháng sinh. Triệu chứng áp xe gan do amíp Bằng lâm sàng áp xe gan do amíp được mô tả từ lâu đó là Sốt cao rét run Đau tức vùng gan Gan to đau Ấn kẽ sườn đau Hình ảnh Xquang thấy cơ hoành phải cao, ít di động, góc sườn hoành phải mờ cùng với xét nghiệm máu Bạch cầu tăng cao và tốc độ máu lắng tăng..v..v..với triệu chứng trên chúng ta chẩn đoán không khó khăn lắm học viên tự đọc thêm. Ở đây lưu ý là Có bệnh nhân ổ áp xe rất lớn nhưng lâm sàng lại nghèo nàn sốt nhẹ, chỉ hơi tức khó chịu vùng hạ sườn phải, thậm chí chỉ sờ thấy gan mấp mé bờ sườn nhưng nhờ có siêu âm nên phát hiện được ổ mủ lớn. Tiến triển Tùy theo từng giai đoạn Giai đoạn viêm Giai đoạn làm mủ Nếu không điều trị kịp thời ổ mủ sẽ vỡ Vào ổ bụng Lên màng phổi hoặc phổi phải Vỡ thông với đường ruột đại tràng Vỡ ra ngoài Rất hiếm khi vỡ lên màng tim Chẩn đoán Chẩn đoán xác định Ngoài triệu chứng lâm sàng, chúng ta có thể áp dụng những phương pháp như Soi Xquang Chụp gan xa Chụp động mạch gan, tĩnh mạch rốn Soi ổ bụng Chụp xạ đồ gan Au-198 Chọc dò Chụp cắt lớp Siêu âm gan. Ngày nay nhờ có siêu âm nên các phương pháp khác ít được sử dụng. Tuy vậy siêu âm không thể thấy hoàn toàn. Ví dụ Ở những cơ sở chưa có siêu âm thì chụp Xquang vẫn thông dụng để chẩn đoán áp xe gan. Không ít trường hợp siêu âm không xác định chắc chắn áp xe gan, phải chọc dò ổ bụng để giúp ta chẩn đoán phân biệt. Soi tìm amíp trong mủ áp xe là phương pháp chẩn đán rất có giá trị, song không phải dễ ràng, kể cả lấy mủ đúng quy cách, lấy sát thành ổ mủ soi ngay vẫn ít trường hợp tìm hấy được amíp. Chẩn đoán phân biệt Với áp xe gan do amíp ở giai đoạn chưa làm mủ ta cần phân biệt với nhiều bệnh khác như Ung thư gan Thủng bít dạ dày tá tràng Viêm tụy cấp Các ổ áp xe dưới cơ hoành Nhọt thận phải Áp xe quanh thận Viêm thùy dưới phổi Bệnh Echinococcus gan nhiễm khuẩn Và một số bệnh khác tự đọc thêm Điều trị Ngày nay 3 biện pháp phối hợp để điều trị áp xe gan do amíp đó là Thuốc đặc trị Loại bỏ ổ mủ khi nó đã hình thành Kháng sinh kết hợp Trong nội dung của bài chỉ đề cập 2 nội dung trên. Thuốc đặc trị Diệt amíp Đầu thế kỷ 19 người ta tìm thấy được Ipecocuakha Ipecacuanha có tác dụng diệt amíp nhưng rất độc. 1817 Pellter và Caventou tách được hoạt chất Emetin 1894 Paul và Cowley làm cho thuốc ít độc hơn, từ đấy cho tới nay Emetin chiếm chủ yếu trong điều tri lỵ amíp với ap xe gan do amíp, Emetin vẫn là thuốc có tác dụng tốt, nhất là giai đoạn đầu chưa làm mủ. Yêu cấu Dùng đúng liều. Nếu liều thấp tác dụng chậm, kéo dài sẽ làm cho amíp chuyển thể khó điều trị hơn. Emetin là thuốc độc khi dùng phải dùng kèm theo thuốc bổ trợ khác. Vấn đề nhờn thuốc của amíp với Emetin có một số ý kiến nêu lên, song cho tới nay vẫn chưa được công nhận. Flagyl loại thuốc mới có tác dụng diệt tất cả các thể của amíp và ít độc hơn. Loại bỏ ổ mủ khi đã hình thành đây là vấn đề được mọi người nhất trí, song bằng cách nào lại có ý kiến khác nhau. Ở những năm trước việc loại bỏ các ổ mủ của ap xe gan amíp chủ yếu là dẫn lưu các ổ mủ ra ngoài theo các bước Chọc dò lưu kim hoặc làm một tiểu thủ thuật với mục đích sau 24 giờ để gan và thành bụng dính vào nhau. Sau đó phá vỡ ổ mủ, hút mủ và dùng thuốc trong phạm vi đã gây dính giữa gan và thành bụng để tránh mủ chảy vào thành bụng gây viêm phúc mạc. Khi áp dụng phương pháp này chỉ có 3 ổ mủ ta sẽ gặp khó khăn Ổ mủ ở mặt sau gan và vòm gan sát cơ hoành chú ý khi khâu 2 lá phổi tránh để mủ chảy vào màng phổi. Xem thêm phẫu thuật thực hành Ổ mủ ở mặt dưới gan không thể gây dính dễ dẫn lưu tối thiểu, buộc phải mở ổ bụng, phá vỡ mặt dưới, hút hết mủ đặt dẫn lưu và dùng mạc nối lớn ngăn chăn không cho mủ lan tràn trong ổ bụng. Ổ mủ ở thùy gan trái việc chọc dò lưu kim dễ gây tổn thương cơ quan khác như dạ dày và các mạch máu lớn. Chọc kim hút mủ vừa điều trị vừa chẩn đoán vừa điều trị cũng được áp dụng từ lâu, song khoảng 20 năm trở lại đây phương pháp này mới dần dần được áp dụng rộng rãi. Khi siêu âm chưa phát triển, việc chọc dò hút mủ trên cơ sở phán đoán vị trí ổ mủ chọc mò. Việc phát triển rộng rãi của siêu âm, giúp cho công việc loại bỏ ổ mủ trong gan trở nên đơn giản hơn nhiều. Nhờ siêu âm ta có thể Xác định vị trí ổ mủ một cách chắc chắn. Đo được thể tích khối mủ. Siêu âm nhìn thấy và hướng mũi kim vào vị trí cần thiết. Chính vì vậy ta có thể chọc hút mủ cả ở những vị trí khó khăn. Nói như vậy không có nghĩa là từ nay phương pháp chọc hút mủ dưới hướng dẫn của siêu âm đã hoàn toàn thay thể cho phương pháp dẫn lưu mủ. Bởi vì nhược điểm của chọc hút mủ là không triệt để vì vậy với ổ mủ lớn chọc tới 2-3 lần mà không khỏi buộc phải áp dụng dẫn lưu mới có kết quả. Tài liệu tham khảo Bệnh học ngoại khoa sau đại học NXBQĐND – HN 2002 tập 1, 2 Ngoại khoa sách – bổ túc sau đại học ĐHYHN 1984 Chuyên khoa ngoại – NXBYH – HN 1985 Tai biến và biến chứng phẫu thuật HVQY 1988 Bệnh học ngoại khoa NXBYH – HN 1985 tập 1, 2 phần bụng. 1986 phần tụy lách 1991 Bách khoa th bệnh học NXBYH – HN 2003 tập 1, 2, 3 Bệnh học ngoại khoa bụng NXBQĐND – HN 1997 Maingot sAbdominal operations. T1, T2 – Appleton & Lange, A. Simon& Schuter company, Printed in the United State of America 1997 David Sabiton; Textbbook of Su rgery, the bilogical basis of mordem sugical practice, T1, T2 Sauders Companny, Printed in the United State of America 1997 Encỵclopédie Médico – Chirurgicale, Technipues chirurgicals, Appareil digestif, T1, T2, T3, Printed in France, 75015 Paris
Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ. Biên tập viên Trần Tiến Phong Đánh giá Trần Trà My, Trần Phương Phương Đại cương Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ. Mủ màu nâu, không mùi và thường là vô trùng, rất ít khi tìm được amíp trong mủ 5-15%. Đối với áp xe gan amíp, có thuốc điều trị đặc hiệu, nên về mặt diễn biến và tiên lượng tương đối tốt. Ngoài ra, hiện nay kỹ thuật chọc hút áp xe qua siêu âm được ứng dụng rộng rãi, nên phẫu thuật điều trị áp xe gan hầu như không còn áp dụng. Nguyên nhân Do các thể amíp gây ra, trong đó hay gặp nhất là thể Entamoeba hystolitica. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ. Lứa tuổi thường mắc nhất từ 30-50, người già và trẻ em ít gặp hơn. Cơ chế bệnh sinh Kén amíp vào ruột gặp điều kiện thuận lợi phát triển thành thể hoạt động và gây bệnh. Amíp gây loét ở ruột và thường là vùng manh tràng, sau đó đi tới gan. Amíp đi tới gan bằng đường nào? Có nhiều giả thuyết có tác giả cho là bằng đường trực tiếp. Sau khi gây loét ở ruột, amíp lách qua các cơ, thành mạc, vào ổ bụng rồi trực tiếp tới gan. Có người cho amíp tới gan bằng đường bạch huyết. Nhưng cho đến nay thuyết cho rằng amíp đến gan bằng đường tĩnh mạch cửa vững hơn cả vì trong mổ tử thi người ta đã xác định được có amíp trong đoạn tĩnh mạch bị nghẽn. Amíp gây loét sâu vào thành ruột làm thương tổn thành mạch, qua đó theo vào tĩnh mạch treo rồi đổ vào hệ thống tĩnh mạch cửa, lên gan. Người ta cho rằng khi đổ vào gan, máu vẫn chảy riêng thành hai luồng một bên do tĩnh mạch mạc treo tràng trên xuất phát từ tĩnh mạch ruột non, manh và đại tràng phải đổ vào gan phải; bên kia từ tĩnh mạch lách và đại tràng trái đổ vào gan trái. Vì vậy áp xe gan do amíp thấy ở vùng gan phải nhiều hơn. Đến gan, amíp làm tắc các tĩnh mạch nhỏ gây nhồi huyết và độc tố của amíp gây hoại tử các tế bào gan. Giải phẫu bệnh Đại thể Thời kỳ viêm gan lan rộng gan to, ứ máu, màu tím sẫm. Khi đã thành mủ, mủ khu trú trong mọi ổ rõ rệt và thường là một ổ độc nhất. Nhưng cũng có nhiều trường hợp có nhiều ổ áp xe nhỏ. ổ áp xe có thể rất lớn, chiếm cả thùy gan phải hoặc trái, trong chứa hàng lít mủ; có thể nhỏ hơn, bằng nắm tay, bằng quả chanh hoặc nhỏ hơn nữa. Áp xe thường gặp ở thùy phải nhiều hơn 80-90%. Thành áp xe mới đầu ngóc ngách không đều vì do nhiều nốt nhỏ hợp lại. Lúc này, thành mềm và mủn. Sau đó, một lớp vỏ rõ rệt được tạo nên và gồm hai lớp; trong là tổ chức nhu mô gan bị hủy hoại, ngoài là tổ chức sợi do xơ hóa các tổ chức liên kết của gan. Chất chứa đựng trong áp xe mới đầu đặc quánh, màu nâu do máu và tổ chức hủy hoại của gan trộn lẫn với nhau, sau lỏng dần ra, màu giống màu cà phê sữa, không mùi. Nếu một ổ áp xe hình thành đã lâu mà không được điều trị thì mủ có màu vàng nhạt. Vi thể Lúc đầu amíp làm tắc những mạch nhỏ của tĩnh mạch cửa và sau đó thoát khỏi chỗ mạch bị thương tổn để gây nên hủy hoại tế bào gan kề bên tạo nên một tình trạng thoái hóa hạt, lúc đó xung quanh vỏ có một lớp bạch cầu bao bọc. Chất chứa đựng của áp xe lúc này không phải là mủ thật, mà là một hỗn hợp không thuần nhất, gồm những tế bào gan ít nhiều bị thoái hóa, hồng cầu, bạch cầu với tỉ lệ đa nhân nhiều hơn ở trong máu bình thường; đại thực bào... Khi áp xe tiến triển, trong mủ xuất hiện những tinh thể acid béo và chậm hơn nữa sẽ trở thành “mủ chết”. Lúc này chỉ còn thấy những bạch cầu thoái hóa, những hạt mỡ và tinh thể acid béo. Giai đoạn đầu, trong tổ chức hoại tử đầy amíp. Nhưng khi áp xe tiến triển, các chất này biến thành mủ chết và amíp chỉ còn có thể thấy trong thành áp xe nhất là ở sâu, chỗ giáp giới với tổ chức gan lành. Triệu chứng cơ năng Hai triệu chứng thường thấy và tương đối cố định là Sốt có thể rất cao Thường là nhiệt độ tăng đột ngột 39-400C, có thể kèm theo rét run, sau đó vã mồ hôi. Nhưng có thể chỉ tăng dần dần và với mức độ vừa phải. Đau là triệu chứng có nhiều giá trị. Bệnh nhân có cảm giác như bị ép ở vùng gan. Vị trí đau thông thường nhất là ở vùng đáy ngực phải và có cảm giác lan rộng trong toàn bộ gan. Hướng lan thường lên ngực và vai phải, làm cho bệnh nhân khó chịu. Đau có thể âm ỉ, liên tục, hoặc thành những cơn nhức buốt và thường tăng lên khi ho, cử động mạnh, nằm nghiêng bên phải, hoặc hít vào sâu; vì vậy trong mọi động tác bệnh nhân phải cố gượng nhẹ ngay cả khi thở. Đau liên tục, kể cả trong lúc nghỉ, nên bệnh nhân thường mất ngủ. Triệu chứng toàn thân Người gầy yếu, da sạm, lưỡi bẩn, môi khô...không thường xuyên và có ít giá trị trong chẩn đoán xác định. Triệu chứng thực thể Triệu chứng nổi bật nhất là gan to và đau. Gan to Khi áp xe thùy phải, bờ dưới của gan có thể vượt khỏi bờ sườn khoảng 2-3 khoát ngón tay, bờ đều, mặt nhẵn, mật độ chắc, gõ đục và ấn rất đau. Đôi khi nắn có cảm giác lùng nhùng nếu áp xe to và nông. Nếu áp xe thùy trái thì thấy khối u nằm chắn ngang trên rốn và liền với gan. Trong những trường hợp gan to về phía trên, gõ sẽ phát hiện vùng đục của gan lên cao, vượt quá khoảng liên sườn 5, nghe mất rung thanh phía sau nên ngực phải. Áp xe ở đỉnh hay gây phản ứng màng phổi, nên khi gõ vùng đục có thể cao hơn thương tổn thực thể. Khi áp xe đã được thành lập rõ rệt, đôi khi có thể thấy các khoảng liên sườn ở phía dưới giãn rộng, đáy ngực nhô cao hơn so với bên đối diện, đi đôi với phù thành ngực tại chỗ. Khám lâm sàng vùng gan Tìm điểm đau Dùng ngón tay ấn ở các khoảng liên sườn VII, VIII, IX trên đường nách giữa, bệnh nhân sẽ đau nhói. Triệu chứng này xuất hiện rất sớm, ngay trong giai đoạn viêm gan toàn thể. Dấu hiệu rung gan Đây là triệu chứng có giá trị hơn cả. Để bệnh nhân nằm ngửa, bàn tay trái xòe, các ngón tay dọc theo các khoảng liên sườn phía trước vùng gan, dùng tay phải chặt lên tay trái, bệnh nhân sẽ ngừng thở đột ngột vì rất đau. X quang không chuẩn bị Cơ hoành bị đẩy lên cao, thường là ở bên phải. Bờ dưới của bóng gan thường thấp hơn Mờ đáy phổi phải do phản ứng mạnh của màng phổi, thể hiện bằng góc sườn hoành bị lấp đầy hay mờ. Khi chiếu ta có thể thấy thêm một dấu hiệu là cơ hoành phải kém di động. Siêu âm Cho hình ảnh ổ áp xe, vị trí, kích thước và tính chất của áp xe. Chụp cắt lớp vi tính Chụp cắt lớp vi tính giúp xác định hình ảnh, vị trí ổ áp xe. Ngoài ra CT scan còn xác định tình trạng của khoang màng phổi phải. Các xét nghiệm khác Phân Cấy hoặc soi tươi tìm amíp và kén amíp rất ít khi thấy. Máu Bạch cầu thường tăng cao trung bình lên tới có khi lên tới với 75-80% bạch cầu đa nhân trung tính. Trong các xét nghiệm, có giá trị và trung thành nhất là tốc độ lắng máu. Thường tăng rất rõ, sau giờ thứ hai từ khoảng 75-125mm phương pháp Westergreen nó biểu thị quá trình hủy hoại của tế bào gan. Ngoài giá trị chẩn đoán, tốc độ lắng máu còn là một tiêu chuẩn để đánh giá và theo dõi kết quả điều trị. Khi viêm gan giảm thì tốc độ lắng máu xuống dần và trở lại bình thường khi khỏi bệnh. Trong những năm gần đây, để xác định nguyên nhân người ta tìm phản ứng miễn dịch đặc hiệu của cơ thể đối với amíp. Nguyên tắc dùng kháng nguyên là loại amíp gây bệnh đã được xác định và giữ lại trong môi trường nuôi cấy. Cho kết hợp với kháng thể lấy từ huyết thanh bệnh nhân và dùng một chất phát quang để có thể thấy được phản ứng khi soi trên kính hiển vi. Vì vậy nó còn được gọi là “phản ứng miễn dịch huỳnh quang”. Hiện nay nhiều phản ứng miễn dịch như Elisa test, Latex test được thực hiện và góp phần vào chẩn đoán dương tính áp xe gan amíp. Một số các xét nghiệm khác như Gros, Mac-Lacgan, điện di, transaminase thường không có thay đổi rõ rệt. Tiến triển và biến chứng Khi viêm gan amíp được phát hiện sớm và điều trị đúng, bệnh có thể khỏi. Emetin đã làm thay đổi toàn diện. Tuy nhiên vẫn còn có một số trường hợp mặc dầu được điều trị đúng và tích cực mà bệnh vẫn tiến triển. Trong những trường hợp không được điều trị, một số có thể tự khỏi, nhưng đó là việc hãn hữu, thường thì bệnh tiến tới giai đoạn áp xe khu trú. Nếu trong thời kỳ này áp xe không được dẫn lưu thì bệnh nhân sẽ chết do suy nhược trong vòng từ 3-6 tháng, hoặc chết do các biến chứng. Vỡ vào các ổ thanh mạc Vỡ vào màng phổi. Vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể. Vỡ vào ổ phúc mạc khu trú do các tạng xung quanh gây dính trước khi áp xe vỡ, gặp nhiều hơn. Vỡ vào các tạng trong ổ bụng Ít gặp. Vỡ vào dạ dày, ruột. Vỡ vào túi mật hay đường dẫn mật làm thông giữa đường mật và áp xe. Vỡ ra thành bụng Áp xe có thể vỡ qua phúc mạc ra sau vào ổ thận làm nhầm với viêm tấy quanh thận, do nguyên nhân khác. Những biến chứng khác Ngoài các biến chứng nói trên, một số các biến chứng khác có thể gặp nhưng hiếm hơn Chảy máu trong ổ áp xe. Bội nhiễm, làm áp xe nặng hơn. Các thể lâm sàng Theo vị trí Áp xe thùy phải thường gặp nhất có triệu chứng điển hình như đã mô tả ở trên. Áp xe ở đỉnh với triệu chứng ồn ào của lồng ngực Khó thở. X quang Cơ hoành phải bị đẩy lên cao, có nước màng phổi. Áp xe phía sau thùy phải gây đau khu trú ở vùng thắt lưng. Áp xe mặt dưới có thể làm ta tưởng là u thận hoặc u đại tràng. Áp xe thùy trái biểu hiện bởi một khối u nằm trong vùng trên rốn nhưng liền với gan. Theo triệu chứng Thể áp xe amíp lạnh Nhiệt độ không tăng, tự nhiên không đau, bạch cầu tăng ít, khoảng nhưng có thay đổi của tình trạng toàn thân rõ rệt, gầy nhanh do đó rất dễ nhầm với ung thư gan. Thể giả viêm phúc mạc Bệnh bắt đầu đột ngột với co cứng thành bụng gây nên một bệnh cảnh giống như thủng dạ dày. Thể hô hấp Bệnh nhân tới với triệu chứng của viêm màng phổi hoặc viêm phổi. Có thể triệu chứng dẫn bệnh nhân tới bệnh viện là khạc ra mủ. Theo tiến triển Thể tối cấp rất hiếm gặp, thường xảy ra ở người già, kém sức đề kháng. Tiến triển của thể này rất nặng. Thường dẫn tới tử vong khoảng từ 1-6 tuần. Bệnh nhân gầy nhanh, có thể có cổ trướng, phù chi dưới, đôi khi do một biến chứng như vỡ vào phúc mạc, chảy máu làm tử vong. Thể mạn tính, khởi phát có thể âm thầm hoặc rầm rộ như các trường hợp viêm gan thông thường khác, nhưng sau đó qua đi và tiến triển một cách thầm lặng. Các triệu chứng khác về cận lâm sàng cũng thường không rõ rệt trừ chiếu hoặc chụp cho ta thấy gan to. Chọc dò sẽ cho phép xác định chẩn đoán. Chẩn đoán xác định Đứng trước một bệnh nhân bị kiết lỵ, bao giờ cũng phải tìm triệu chứng của viêm gan, và trước một bệnh nhân có sốt, đau và gan to, bao giờ cũng phải nghĩ tới áp xe gan. Việc hỏi tiền sử cũng góp phần trong chẩn đoán song không quan trọng lắm. Các xét nghiệm Bạch cầu tăng, tốc độ lắng máu tăng, chụp không chuẩn bị hay có chuẩn bị bằng bơm hơi đại tràng hoặc uống chất cản quang sẽ cho thấy gan to, cơ hoành phải kém di động, góc sườn hoành mờ. Ngoài vấn đề xác định là một trường hợp áp xe, siêu âm còn cho phép ta biết được gan hiện còn đang ở trong giai đoạn viêm lan rộng hay đã thành áp xe khu trú. Chọc dò xác định là chắc chắn nhất, nếu có mủ. Ngoài ra, chọc dò còn có giá trị trong chẩn đoán nguyên nhân, hoặc đôi khi là một phương tiện điều trị. Chẩn đoán phân biệt Giai đoạn viêm gan Cần phân biệt với một số bệnh như viêm túi mật, sốt rét...Vấn đề căn bản để phân biệt ở đây là nghĩ tới nó, tìm phản ứng miễn dịch đặc hiệu với amíp. Khi áp xe thành hình Có một số bệnh thường phải phân biệt như sau Ung thư gan, nhất là với thể áp xe gan trường diễn không gây nên các triệu chứng chức năng ồn ào, không sốt nhưng tình trạng toàn thân suy sụp dần và gan to, đôi khi có cổ trướng và phù chân trong trường hợp tới muộn. Nang nước của gan. Ngoài ra, còn một số bệnh khác như thương hàn hoặc nhiễm trùng huyết trong áp xe tối cấp, sốt rét, lao, bệnh do Brucella...là những trường hợp rất hiếm và trong việc chẩn đoán phân biệt gặp nhiều khó khăn. Chẩn đoán nguyên nhân Cần phân biệt áp xe gan amíp với áp xe đường mật do sỏi hoặc giun trong trường hợp triệu chứng tắc mật không rõ, và với những áp xe do những nguyên nhân nhiễm trùng khác. Trong trường hợp này; làm thêm một số xét nghiệm khác như cấy máu, thử phản ứng miễn dịch đặc hiệu đối với amíp sẽ giúp xác định được nguyên nhân. Tiên lượng Áp xe gan vẫn là biến chứng tương đối nặng cúa các bệnh amíp đường ruột. Tuy nhiên, về mặt tiên lượng, có thay đổi khá nhiều từ khi metronidazol ra đời. Trừ một số rất hãn hữu có thể tự khỏi, còn thì tiên lượng phụ thuộc vào điều trị và kết quả đạt được sẽ tùy theo sự phát hiện sớm hay muộn, điều trị có đúng hay không. Có những trường hợp sau một thời gian lại tái phát cấp diễn, bán cấp hoặc trường diễn, vì vậy mặc dù các triệu chứng viêm gan đã hết, vẫn phải tiếp tục điều trị duy trì. Nói như vậy không phải bao giờ tiến triển cũng tốt, mà có những trường hợp mặc dầu được điều trị đầy đủ vẫn tiến triển đến thành mủ. Khi áp xe thành hình, chọc hút, hoặc mổ dẫn lưu phối hợp với điều trị bằng Metronidazole và kháng sinh thường là khỏi. Điều trị Ta đã biết rằng áp xe gan là một giai đoạn tiếp diễn của một quá trình viêm gan lan rộng không được điều trị tốt mà trên các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng cũng khó biết được chắc chắn rằng bao giờ còn ở giai đoạn viêm gan và lúc nào đã thành mủ. Mục đích điều trị có hai phần diệt amíp, dẫn lưu ổ mủ. Điều trị nội khoa Quá trình điều trị bằng thuốc của áp xe gan amíp có thể chia làm ba thời kỳ tấn công, duy trì và củng cố. Giai đoạn đặc biệt dành cho amíp khu trú ở gan; còn hai giai đoạn sau chỉ làm vững bền kết quả đạt được của giai đoạn đầu và mục đích là để diệt các thể khác của amíp ở ruột, là nguồn gốc gây áp xe mới sau này. Thực tế ở nước ta thường chỉ cần tiến hành một đợt điều trị tấn công là đủ, nên trong phần này chỉ trình bày phần điều trị tấn công. Cho tới nay đối với amíp thuốc tốt nhất vẫn là metronidazol. Điều trị ngoại khoa Các phương pháp điều trị và chỉ định Đối với áp xe chưa gây biến chứng Chọc hút mủ từ 1908, Rogers đã đặt ra chọc dò và hút mủ là một phương pháp điều trị áp xe gan amíp. Kỹ thuật gây tê tại chỗ, dùng kim to có đường kính 10/10 dài 10-12 cm. Nơi chọc dò là chỗ tới ổ mủ ngắn nhất nghĩa là ở chỗ đau và phồng nhất. Lấy mủ tìm amíp và vi trùng. Chọc hút mủ dưới sự hướng dẫn của siêu âm là một phương pháp điều trị đơn giản, đưa lại kết quả tốt. Đối với các biến chứng Vỡ vào ổ bụng khu trú gây áp xe dưới cơ hoành Chích dẫn lưu áp xe dưới hoành hoặc chọc hút dưới sự hướng dẫn của siêu âm. Vỡ vào ổ bụng tự do Mổ lau ổ bụng, dẫn lưu áp xe và dẫn lưu ổ bụng khi cần thiết. Vỡ vào màng phổi Điều trị nội khoa Metronidazol, kháng sinh, và dẫn lưu màng phổi. Vỡ vào màng phổi Dẫn lưu như với mọi trường hợp viêm mủ màng phổi khác. Vỡ vào màng tim Rất hiếm gặp, nếu có phải dẫn lưu ngay màng ngoài tim.
áp xe gan amip